Google Map
Đăng nhập
Tên đăng nhập

Mật khẩu



Liên kết mạng xã hội
Quảng cáo
385 385 hinh Lễ Húy kỷ82 ưassa Lễ Huý kỵ 382 383 383 hinh
Thống kê truy cập
Hình ảnh hoạt động
Lễ Huý kỵ 386 Lễ Huý kỵ 386 Lễ Huý kỵ 386 Lễ Huý kỵ 385 Lễ Huý kỵ 385 Đền Thờ Thái Sư Hoằng Quốc Công Đào Duy Từ hinh Lễ Húy kỵ 382 Lễ Huý kỵ 384 Lễ Huý kỵ 385
Liên kết website

Tư Dung Vãn (ca ngợi cửa biển Tư Hiền ở Thừa Thiên), viết bằng chữ Nôm theo thể văn vần được các nhà nghiên cứu đánh giá cao xếp hàng đầu trong những tác phẩm văn học viết của nền văn học Đàng Trong.

 

TƯ DUNG VÃN

 

200. Tiềm tâm Đạo Chích, ẩn thân Di – Đà.

 

Rừng thiền lẩn dấu vào ra,

 

Cắp trăng vườn hạnh, trộm hoa cửa đào.

 

Nam mô hai chữ bán rao,

 

Lòng, gương soi tỏ lưỡi dao sáng ngời.

 

205. Rằng hay cứu vật độ người,

 

Xử mình chẳng chính, chính ai đó là?

 

Đã rằng nương dấu Thích Ca,

 

Nào thuyền Bát nhã vượt qua ái hồ.

 

Đã rằng dưa muối bả bô,

 

210. Lạp bình tương thủy những đồ cao lương?

 

Đã rằng chống vững kim cương,

 

Nào gươm cát muộn, nào gương soi tà?

 

Nào phương ngay chúa thảo cha,

 

Nào phương lợi nước lợi nhà xa toan?

 

215. Mặc ai sức trải gian nan,

 

Chẳng noi chính đạo dẹp loàn cứu dân.

 

Sao bằng người ẩn non nhân,

 

Cây che mắt tục, suối ngăn lòng tà.

 

Dạo chơi thế giới bà sa,

 

220. Sớm vào cửa thánh, tối ra hang thần.

 

Ở trần mà chẳng nhiễm trần,

 

Tả chân bèn gợi một vần họa xang.

 

Thơ rằng:

 

Ai gọi lâm tuyền thú chẳng vui?

 

Ca chim đàn suối hảo hòa đôi.

 

Hây ha thu rót bầu huỳnh cúc,

 

Thủng thỉnh xuân trèo lãnh bạch mai.

 

Chống tuyết thung già đeo hổ phách,

 

Lướt sương trúc cứng đượm đồi mồi.

 

Hay đâu là phúc đâu không phúc,

 

Tạm lánh nhân gian chốn lẻ loi.

 

Thơ thôi bước tới ngàn thông,

 

Đường chim lắt lẻo, suối rồng nhiễu quanh.

 

225. Lều dựng đá, cảnh vẽ tranh,

 

Hòe vàng trương tán, lau xanh phất cờ.

 

Liễu tươi trúc đượm đó ưa,

 

Đào non ngậm tuyết, thung già chống sương.

 

Lơ thơ bóng xế hải đường,

 

230. Gà rừng eo óc, dế tường đảnh đa.

 

Thoảng chừng trông lại thanh sa,

 

So le cánh nhạn bay qua mái chiền.

 

Rèm hồng lầu tía đua chen,

 

Đỏ lòe khoảng biếc, xanh in đáy ngần.

 

235. Linh sơn một đỉnh tần vần,

 

Tám phương cõi thọ đài xuân sum vầy.

 

Màn trời muôn trượng khôn dời,

 

Cao thay kiều nhạc, vững thay thái bàn.

 

Doi le vịnh hạc chen đoàn,

 

240. Cầm bầu thanh cúc, rủ màn bạch vân.

 

Thuyền ai kề cận bồi tần,

 

Thương Lang gióng giả một vần hòa ghê?

 

Ca rằng:

 

Dòng trong vì nguồn sạch,

 

Bóng thẳng bởi cây ngay.

 

Thái bình mừng gặp hội,

 

Chốn chốn hứng đều say.

 

Ngâm thôi cười nói thỏa thuê,

 

Thú ta mát mẻ bén kề thu trăng.

 

245. Tới lui cẩn niệm đạo hằng,

 

Loan le gá bạn, gió trăng kết mành.

 

Lánh thời én sẻ cùng anh,

 

Uẩy bầu danh lợi, chí kình sá bao?

 

Trót từng hồng hộc bay cao,

 

250. Lẽ đâu ngồi luận cò ngao rối lòng!

 

Khách nghe cả gọi ngư ông:

 

“Thuyền ngươi đậu đó tớ cùng luận chơi.

 

”So xem trong đạo làm người,

 

“Lấy nơi đâu chánh, bỏ nơi đâu tà?”

 

255. Ngư rằng: “Lời thiệt chẳng ngoa,

 

“Tại minh minh đức ấy là nẻo xưa.

 

“Trăng ngô gió liễu chẳng ưa,

 

“Le đầu gẫm biết lời xưa tiên hiền.

 

“Suối mới thông, lửa mới nhen,

 

260. “Càng cao càng vọi, càng bền càng xoi.

 

“Bầu nhan nếm cũng biết mùi,

 

“Gội dòng sông Tứ, nảy chồi non Ngưu.

 

“Năm hằng ba mối làm đầu,

 

“Cội tòng nhánh bá mặc dầu đông tây.

 

265. Chớ nghe lời nói êm tai,

 

“Dẫn đường họa phước, luận lời hư vô.

 

“Sao bằng tâm chánh thân tu,

 

“Thảo ngay là chí trượng phu trên đời”.

 

Đàm thôi trở lại non mây,

 

270. Suối đàn thánh thót niềm tây chạnh phiền.

 

Gẫm thế sự, thể bóng đèn,

 

Cớ chi quyến luyến trần duyên nhọc mình.

 

Xa hơi vừa cách góc thành,

 

Vật vờ hồn tục trên nhành chào ai?

 

275. Người nào thất thểu non đoài,

 

Tay xang khoan nhặt, miệng thời ngêu ngao.

 

Ngâm rằng:

 

Búa trăng đủng đỉnh,

 

Rìu gió thảnh thơi,

 

Ngàn liễu mưa vừa ráo,

 

Nguồn đào nắng mới phơi.

 

Xa xem thấy Thiên Thai vòi vọi,

 

Bàn Khê đầu điểm tuyết là ai?

 

Yên hà treo một gánh,

 

Trung hiếu nặng hai vai.

 

Kíp thâu dài với ngắn,

 

Nào khác thánh dụng tài.

 

Dừng chân xin hỏi gã tiều:

 

“Thú vui non nước, ngươi yêu thú nào?”

 

Tiều rằng: “Nhân trí đấng cao,

 

280. “Non tiên từng trải, suối đào từng sang.

 

“Kìa như Lượng ẩn Long cang,

 

“Vững chia chân vạc, vinh vang muôn đời.

 

“Kìa như Quang Vũ điếu đài,

 

“Côn Dương một trận phá loài Mãng gian”.

 

285. Những mong ngợi thú khảo bàn,

 

Cày kia đã gác trên ngàn cao ngâm.

 

Ngâm rằng:

 

Sớm thời dậy,

 

Tối thời nằm.

 

Khát đào uống,

 

Đói cày ăn.

 

Sự ai ta chẳng biết,

 

Thú ta ai dễ ngăn?

 

Lều Doãn ơ thờ ba mớ cỏ,

 

Kíp thâu phong nguyệt bốn mùa xuân.

 

Xa nghe cả gọi kẻ cày:

 

“Thú ta vui đạo chốn này ai ngăn?

 

“Mặc dầu cuốc gió cày trăng,

 

290. “Rau cần sự cũ lẽ hằng đó chăng?

 

 

“Lam nham sách Nịnh treo sừng,

 

“Duyên sao tỏ đặng phế hưng sự đời?

 

“Lịch sơn ấy dấu ai cày,

 

“Chim kia tha cỏ, voi này thế trâu?

 

295. “Mưu nơi chải gió tắm mưa,

 

“Họa may nhuốm gội ơn thừa Đường Ngu”.

 

Mảng xem cảnh cũ làm vui,

 

Vẳng nghe tiếng địch mục phu góc rừng.

 

Bên rừng vừa gác bóng trăng,

 

300. Gác chân cật nghé gõ sừng ca chơi.

 

Ca rằng:

 

Nội Võ ruộng.

 

Dặm Châu ngay,

 

Rau non nhiến,

 

Cỏ xanh rì.

 

Hứng vui canh điếu mặc lòng ai,

 

No miệng trâu ta thẳng nét cày.

 

Dầu có Điền Đan ra kế xảo,

 

Nên rồi ta cũng chẳng rằng hay.

 

Lân la vẫy mục buông lời,

 

Rằng: “Ngươi chắc đã lên người phong lưu?

 

“Hiu hiu hứng mát đền Vu,

 

“Gió xuân thay quạt, trăng thu thế đèn.

 

305. “Hây hây cưỡi hạc lên tiên,

 

“Thị thành cũng trải, lâm tuyền cũng xê.

 

“Kìa ai lụm cụm Bàn Khê,

 

“Tám trăm chỉ đỏ cuốn về một dây?

 

“Kìa ai thơ thẩn non tây,

 

310. “Nương không cưỡi gió, ước vì theo tiên?

 

“Kìa ai mến cảnh hồ thiên,

 

“Chí nguyền viên hạc, kết nguyền gió trăng?

 

“Kìa ai dạo chốn sơn trang,

 

“Ghê nơi cảnh lạ thú càng vui xuê?

 

315. “Kìa ai tay hái cỏ vi,

 

“Chim kêu ngỡ tiếng Bá Di nên mừng?

 

“Kìa ai cầm chén gọi trăng,

 

“Xưa nay rằng cũng mấy vừng tỏ soi?

 

“Kìa ai đạp tuyết tầm mai,

 

320. “Lục bào kim đái nở chồi gấm xuân?

 

“Kìa ai xa lánh cõi trần,

 

“Ba căn hải ốc, mấy lần tang thương?

 

“Kìa ai mến cảnh Tiêu Tương.

 

“Linh đinh một lá, dọc ngang năm hồ?

 

325. “Kìa ai thích chí ngao du,

 

“Nhà tranh ngạch hở, bạch câu nước dồn?”

 

Thảnh thơi khách hứng nước non,

 

Thung reo thế địch, suối tuôn tạm đàn.

 

Thiên Thai người khéo lang đang,

 

330. Dạ lăm cắp núi, chí toan vá trời.

 

Rộng thênh đường thế mặc ai,

 

Ngụ trong bốn thú, gác ngoài một thơ.

 

ĐÀO DUY LỘC (sưu tầm - biên soạn)

(Theo Sử Việt)