HỔ TRƯỚNG KHU CƠ
QUYỂN III
TẬP NHÂN
YẾU CHỈ VỀ TƯỚNG
Phàm đạo làm tướng, có tám điều cốt yếu: Một là đốc nhân, hai là minh nghĩa, ba là cẩn tín, bốn là trí dũng, năm là minh triết, sáu là tài năng, bảy là cương dũng, tám là uy nghiêm. Trong tám điều ấy, lấy chí thành làm chủ…
PHÉP CHỌN TƯỚNG LUYỆN BINH
YẾU LUẬN VỀ QUÂN CƠ
PHÉP DẠY QUÂN ĐÁNH GIẶC
PHÉP GIỮ THÀNH CHỐNG GIẶC
YẾU LUẬN VỀ ĐỊA THẾ
Phàm người làm tướng, trên thông thiên văn, dưới hiểu địa lý. Thiên văn là biết vận độ của nhật nguyệt tinh thần, biết then mấy âm dương rét nóng để rõ manh mối họa phúc, điềm triệu lành dữ. Địa lý là biết sự biến di của chim muông cây cỏ, biết thế hiểm của núi sông hang khe, để đặt phục ra kỳ, lập dinh đóng trại. Không như học giả đời sau học thiên văn chỉ câu chấp ngày giờ tốt xấu mà không biết biến thông, học địa lý chỉ câu nệ long hổ xà tước mà không biết hình thế.
Trước có người bạn hỏi tôi rằng: Địa lý là gì? Tôi đáp rằng: Địa thì có mười kiểu, bốn kiểu đất xấu, sáu kiểu đất tốt. Bốn kiểu xấu là thế nào?Một là đất thiền kháo, hai là đất tử phách, ba là đất tử trụ, bốn là đất tử ngục. Trong bốn đất ấy dẫu có trí tướng ở vào đấy cũng không làm thế nào được… Sáu kiểu đất tốt là gì? Một là thông địa, hai là quai địa, ba là chi địa, bốn là ải địa, năm là hiểm địa, sáu là viễn địa…
Hình thế mười kiểu đất ấy là đại lược của binh gia, còn như những điều nhỏ nhặt thì không thể nói hết… Cho nên đạo làm tướng tất lấy địa lý làm đầu.
Vậy có thơ rằng:
Thảng vân trí tướng thiện hành binh,
Thập pháp chi trung vật tự khinh.
Khoáng dã bình nguyên nghi kết trận,
Y son bàng thủy khả an dinh
Dương sư tu tảo phòng hung địa,
Chấn lữ vưu dương chiếm địa hình.
Viễn cận hiểm di tâm tận quát,
Phong trần nhất tảo trứ phương danh.
Dịch:
Nay xem trí tướng khéo hành binh,
Mười phép trên này chớ tự khinh.
Nội rộng đồng bằng nên kết trận,
Dựa non bên nước khá bày dinh.
Đóng quân trước hết phòng hung địa,
Cắm trại càng nên chiếm địa hình.
Hiểm dễ xa gần lòng thấu suốt,
Phong trần quét sạch để phương danh.
ĐÀO DUY LỘC (sưu tầm – biên soạn)
(Theo Sử Việt)