HỔ TRƯỚNG KHU CƠ
QUYỂN I
TẬP THIÊN
TỔNG LUẬN VỀ CƠ YẾU BINH PHÁP
Mảng nghe: Gươm báu ấn vàng, Nguyên soái lên đàn ban hiệu lệnh, Quạt lông khăn lụa, Quân sư cười nói vận thần cơ…
Đến quốc triều ta, Chính Nha úy Nội tán Lộc Khê tiên sinh, đem tài lạ giúp Vua, phát huy tinh túy của tướng môn lập ra các phép hỏa cầu, yên cầu và phép thương lửa dưới đất, tên lửa chứa thuốc độc, dẫu người đời xưa sống lại cũng không hơn đâu. Người sau học được yếu chỉ thì chỉ có Triệu Điền, Bảo Thúc, Cao Toàn mấy người mà thôi. Sau khi các vị ấy đã quy thần thì có ai nối được truyền thống ấy nữa đâu! Than ôi! Đất đã chôn bí pháp, nhưng may trời chưa chôn lương mưu, để cho bạn ta như Cao công là người tuổi trẻ lỗi lạc, học thuật thấm nhuần, để lòng giấu cất ngọc quý của tướng lược, khắc xương ghi chép phép diệu của binh gia, rửa bút rất tinh, mài nghiên rất sạch, biên thành sách Hổ Trướng Khu Cơ, chia làm ba quyển, đầu đuôi cộng 37 điều. Thực là quốc sĩ vô song, quỷ thần mạc trắc, không những chỉ là phép hỏa công thủy chiến, lại đến cả phép giữ trại phòng gian, vận dụng cơ quan, không cái gì là không chép đủ. Được người khá mà dạy cho thì kinh dinh bốn phương, công ghi sử sách, trăm đời cũng không mất vậy. Công dụng của tiền nhân bổ ích có phải là ít đâu.
THIÊN HỎA CÔNG
Phép diều lửa đốt giặc
Phép làm hỏa cầu (quả nổ).
Phép chế yên cầu (quả mù)
Phép chế hỏa đồng.
Phép làm hỏa tiễn (tên lửa)
Phép chôn hỏa thương dưới đất,
Phép hỏa tiễn chứa thuốc độc.
Phép làm súng gỗ
Phép đốt đuốc trước gió.
Phép làm đèn phi thiên.
THIÊN THỦY CHIẾN
Phép lấy nước ngọt trong biển.
Phép phá xích sắt.
Phép đặt tên ngầm dưới nước
Phép đóng cọc lòng sông.
Phép dùng chum tre cho quân sang sông.
Cách lấy nước lên núi.
Phép làm cầu phao trăm cấp.
Phép làm voi vôi nổi sóng.
Phép đặt thủy lôi dưới nước.
THIÊN BỘ CHIẾN
Phép thần cơ đắp lũy tạm
Phép xe súng bắn liền
Phép xe gươm phá giặc
Phép gài tên dưới đất.
Phép ống tên giấu hình
Phép nấu cơm ở đầu ngựa.
Phép thuốc tiên chịu đói.
Phép thang hai tầng.
Phép súng bắn đổ núi.
THIÊN GIỮ TRẠI
Phép máy đá giữ trại.
Phép nỏ thần giữ trại.
Phép dây tiên trói giặc
Phép nỏ khỏe phòng gian.
Phép lưới trời yểm trại.
Phép chữ đinh giữ thủy trại.
Phép làm cờ xem hướng gió.
LỜI TỔNG BÌNH VỀ TẬP THIÊN
… Trời là ông cha của chúng sinh, là gốc rễ của vạn vật, tôn trọng tuyệt đối, to lớn không còn cái gì ở ngoài. Dẫu to như cá côn nhảy ba nghìn dặm, chim bằng bay chín vạn dặm, cao như núi Thái Sơn, sâu như sông Hoàng Hà, cũng chỉ là một vật nhỏ trong bầu trời. Tôi đọc sách binh pháp không phải không nhiều, nhưng chật án đầy hòm đều là hình trạng mây gió, dài dòng dẫy sách đều là hình thể rắn chim. Duy chỉ có sách Hổ Trướng Khu Cơ rất là tinh diệu, rất là giản dị. Nếu người ta học được thì trong lúc thảng thốt vẫn bàn nói như thường dẫu có thần binh trăm lộ cũng chẳng bằng xem cá, vỗ đùi, vận dụng một lòng mà có thể bẻ mũi nhọn, đánh tan trận, không suy nghĩ mà làm được, không miễn cưỡng mà đúng phép, hình như tạo hóa tự nhiên. Cho nên tôi cách Lộc Khê hầu hơn một trăm năm, mà xem diệu pháp lưu truyền, thần cơ tạo hóa, còn khiến phải thè lưỡi lạnh da, huống là người được thân gần học tập! Nay bốn thiên trong tập này cộng 36 điều, thực là then máy của Hổ Trướng, khóa chốt của tướng môn, thực xứng với tên “Hổ Trướng Khu Cơ” vậy. Cho nên đối với tập thiên này thì bảo là nên tiềm tâm, tận tâm, dụng tâm, đối với các bài thơ thì bảo là nên xét kỹ, nghĩ kỹ, xem quý, dốc làm, cũng chẳng nên sao? Nay xin làm lời huấn từ để tỏ cái ý ba lần ra lệnh, năm lần nhắc lại.
HUẤN TỪ
Tờ giấy mỏng điểm bao nết ngọc,
Sách bìa vàng sáng tựa ngọc châu.
Đem văn giáo để giữ thành thì nghĩa sâu của Lân kinh
Dùng võ công để dẹp loạn thì then máy của Hổ Trướng
Cầm cờ tướng đảm đương ngoài cõi, tiếng thơm lẫy lừng;
Ngồi trong màn quyết định mưu mô, chước thần không sót.
Quét mây mù ở hang nguyệt, kính ngọc của tướng môn;
Quét khói bụi ở chân trời, rùa thiêng của binh tướng.
Chứa cả kiền khôn vào sách báu, rất sâu rất tinh;
Phát tạo hóa trong lụa vàng, càng kỳ càng diệu.
Xem tam tài mà đặt tên tập, văn sáng như ngọc lành;
Lấy tứ tượng mà chia thiên, chữ đẹp như châu quý.
Định giang sơn của xã tắc, oanh liệt rồng bay;
Trong vũ trụ lập công danh, tít cao bằng liệng.
Quét sạch khói lang ở cửa ải, không phải mỏi tay;
Đặt yên nhà nhạn trong cõi trần, không cần nhăn trán.
Rửa nhật nguyệt trên mây biếc, thần phục quỉ kinh;
Dựng núi sông làm nghiệp to, trời tươi cao sáng.
Lừng nghĩa dung đến nghìn thuở, nào ai địch cùng;
Định thái bình trong một thời, không gì sánh kịp.
Sách thư xướng trước, đỡ trời một tay;
Trúc bạch truyền đời, lưu danh muôn thuở.
Cứu nhân dân trong đồ thán, thua gì Tử Nha;
Trổ kinh luân ở dưới trời, kém đâu Y Doãn.
Thực là khóa chốt của cửa tướng, người học phải suy;
Thực là then máy của nhà binh, người bậy chớ bảo.
Tiên giác bao cao cả,
Huấn từ nên kính theo.
ĐÀO DUY LỘC (sưu tầm – biên soạn)
(Theo Sử Việt)