TTO – Sáng 22-2 tại Hà Nội, Ban tuyên giáo trung ương tổ chức buổi thông tin khoa học “Một số thành tựu mới trong nghiên cứu lịch sử Việt Nam” do GS.NGND Phan Huy Lê – chủ tịch danh dự Hội Khoa học lịch sử Việt Nam – trình bày.
GS.NGND Phan Huy Lê - Ảnh: Vũ Viết Tuân
“Tất cả các nền văn hoá từng tồn tại trên lãnh thổ Việt Nam đều là di sản của văn hoá Việt Nam, đều là bộ phận tạo thành của văn hoá Việt Nam”.
GS Phan Huy Lê đã nêu những thành tựu nổi bật mới trong nghiên cứu suốt chiều dài lịch sử Việt Nam. Theo đó, bên cạnh văn hoá Đông Sơn thì việc nghiên cứu văn hoá Sa Huỳnh và văn hoá Óc Eo đã đạt được nhiều thành tựu. Ba nền văn hoá Đông Sơn, Sa Huỳnh, Óc Eo tồn tại ở ba miền Bắc, Trung, Nam đều phát triển rực rỡ và bổ sung cho nhau.
Trong thời kỳ Bắc thuộc, đã có thêm những cơ sở để khẳng định cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan kéo dài gần tròn 10 năm (713 - 722) chứ không phải chỉ diễn ra trong thời gian ngắn, bùng nổ và thất bại trong năm 722. Điều đặc biệt, cuộc khởi nghĩa không chỉ quy tụ nhân dân trong nước mà còn liên kết với nhiều quốc gia xung quanh như Chân Lạp, Chăm Pa…
Ghi nhận công lao nhà Nguyễn
GS Lê nhấn mạnh: “Một trong những công lao rất lớn của chúa Nguyễn và nhà Nguyễn là mở mang bờ cõi, thống nhất đất nước, khai phá đồng bằng sông Cửu Long. Năm 1757 chúa Nguyễn đã định hình được lãnh thổ Việt Nam mà về cơ bản gần giống như lãnh thổ Việt Nam hiện nay từ phía Bắc vào Cà Mau, từ Tây Nguyên ra biển, bao gồm cả vùng biển, các đảo ven bờ và hai quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa. Nhà Nguyễn có công rất lớn trong việc hình thành và định hình một nhà nước thống nhất và xác lập lãnh thổ - không gian sinh tồn của nước Việt Nam. Công lao nhà Nguyễn về phương diện này không thể chối cãi. Đã đến lúc cần nhìn rõ công, tội của nhà Nguyễn”.
Tuy nhiên, GS Lê cũng nhắc lại hai tội lớn của nhà Nguyễn là để mất nước vào tay quân Pháp và quá bảo thủ, từ chối tất cả các đề nghị canh tân đất nước của nhiều nhà trí thức tiến bộ.
“Nhìn nhận về lịch sử phải hết sức khách quan và cái gì khách quan của lịch sử mới tồn tại lâu dài được. Còn cái gì mà trong một tình thế thời sự nào đó ta phải tôn vinh hoặc hạ thấp thì nó chỉ tồn tại trong một điều kiện nhất định nào đó. Sử học đành rằng phải làm tròn trách nhiệm công dân nhưng sứ mạng cao cả nhất của sử học là làm thế nào để tạo nên được những trang sử bằng cứ liệu lịch sử, khách quan, trung thực”.
Những khoảng trống lịch sử
Phần thứ hai của bài thuyết trình, GS Phan Huy Lê thẳng thắn chỉ ra nhiều khoảng trống lịch sử nguy hiểm trong tư duy, nhận thức về lịch sử Việt Nam hiện nay.
Ông cho rằng nhận thức về lịch sử Việt Nam hiện nay vẫn xuất phát từ truyền thống thời quân chủ, đó chủ yếu là lịch sử của các vương triều, của nhà vua, các triều thần, còn lịch sử nhân dân rất mờ nhạt. Lịch sử của các dân tộc thiểu số không được nhắc đến. Sử học hiện đại Việt Nam trong một thời gian dài cũng chỉ trình bày nặng nề về lịch sử người Việt.
“Vì vậy, trên cả nước thì chỉ có lịch sử miền Bắc là được trình bày có ngọn nguồn từ thời nguyên thuỷ đến thời Hùng Vương, An Dương Vương, thời Bắc thuộc đến thời phong kiến, cận đại, hiện đại. Còn lịch sử của Nam Trung bộ chỉ mới bắt đầu từ thế kỷ 16, lịch sử Nam bộ chỉ bắt đầu từ thế kỷ 17.
Trước đó lịch sử của hai vùng đất này ra sao thì chúng ta bỏ trống. Đó là một khoảng trống lịch sử cực kỳ nguy hiểm. Vì từ khoảng trống này đã làm nảy sinh nhiều nhận thức tuỳ tiện, bất lợi cho chủ quyền lãnh thổ Việt Nam hiện nay.
Tôi nhớ mãi là sau năm 1975 khi chúng tôi vào miền Nam, nhiều trí thức trong đó đã nói rằng họ rất băn khoăn khi nhân dân hỏi thì không biết trả lời thế nào về lịch sử của Nam bộ, của Sài Gòn trước đó như thế nào? Không lẽ từ trên trời rơi xuống? Rõ ràng đây là nhận thức phiến diện tạo thành một khoảng trống lịch sử.
Vì sao nước ta có 54 dân tộc mà chỉ có tôn vinh lịch sử của người Việt, gạt bỏ các dân tộc khác ra ngoài?” – ông Lê trăn trở.
Xác lập quan điểm lịch sử mới
Lời giải mà GS Phan Huy Lê đưa ra để san lấp các khoảng trống lịch sử đó là cần phải xác lập một quan điểm, nhận thức mới về lịch sử Việt Nam. “Một quan điểm tuy không được đưa vào các văn kiện của Liên Hiệp Quốc nhưng gần như tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới đều thừa nhận, đó là lịch sử của bất cứ một quốc gia dân tộc nào cũng đều xuất phát từ lãnh thổ hiện nay để viết sử.
Tất cả những gì diễn ra trên không gian địa lý, lãnh thổ đó đều thuộc về chủ quyền khai thác, bảo quản và nghiên cứu của chính quốc gia đang làm chủ đó, dù trước đó có những dân tộc đã từng có những nhà nước riêng.
Tất cả các tầng lớp cư dân, cộng đồng, tộc người hay các vương quốc từng tồn tại trên các không gian lãnh thổ đó đều thuộc về lịch sử và văn hoá của nhà nước hiện nay đang quản lý lãnh thổ đó”.
GS Lê lấy ví dụ Trung Quốc trước đây cũng viết lịch sử đất nước chủ yếu là của người Hán, nhưng bước sang đầu thế kỷ 21 thì quan điểm đó đã thay đổi, bây giờ họ trình bày lịch sử của Trung Hoa bao gồm nhiều tộc người như người Hán, người Mãn Thanh, người Mông và cả các vương triều phi Hán như nhà Nguyên, nhà Thanh…
Nếu xác định quan điểm lịch sử mới này, chúng ta sẽ tìm được giải pháp xuyên suốt cho vấn đề chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và vấn đề Nam bộ.
“Lãnh thổ Việt Nam hiện nay đã được nhiều tổ chức quốc tế công nhận tức là một lãnh thổ hợp pháp, nên tất cả những gì diễn ra trên lãnh thổ này, kể cả đất liền, hải đảo và hải phận đều là một bộ phận của lịch sử và văn hoá Việt Nam.
Như vậy, lịch sử Việt Nam không lịch sử của một bộ phận người Việt mà là lịch sử của tất cả các dân tộc nằm trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, trong đó bao gồm cả các dân tộc trước đây đã từng có nhà nước riêng như người Chăm, người Khmer… Tất cả các nền văn hoá từng tồn tại trên lãnh thổ Việt Nam đều là di sản của văn hoá Việt Nam, đều là bộ phận tạo thành của văn hoá Việt Nam” – GS Lê nêu quan điểm mới về nhận thức lịch sử Việt Nam.
Cũng từ nguyên tắc này, với cuộc kháng chiến chống Pháp thì cần nghiên cứu trình bày cả vùng chiếm đóng của Pháp, trong đó bao gồm cả Hà Nội thời kỳ Pháp chiếm đóng, cả quốc gia Việt Nam thời Bảo Đại.
Tương tự, thời kỳ kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975) cũng cần nghiên cứu sâu hơn về những vùng tạm chiếm ở miền Nam, đặc biệt là Sài Gòn và cả lịch sử của Việt Nam Cộng Hoà. GS nói rõ hơn: “Trước đây ta vạch ra ranh giới của địch và ta và chỉ trình bày phía ta đã làm mất đi căn cứ pháp lý trọng yếu để khẳng định chủ quyền với lãnh thổ Việt Nam. Quan điểm lịch sử mới này vừa là thực tế lịch sử vừa là bộ phận có tính chất khách quan trung thực và là căn cứ pháp lý trọng yếu để khẳng định chủ quyền Việt Nam trên bộ, đặc biệt là trên biển, hải đảo”.
GS.TS sử học Nguyễn Quang Ngọc cũng cho rằng việc trình bày lịch sử ở từng khu vực trong lãnh thổ Việt Nam không nhất thiết cứ dựa trên mối quan hệ là sự đoàn kết mà có khi sự mâu thuẫn, đối lập, chiến tranh… trong từng giai đoạn lịch sử cũng là những mối quan hệ cần trình bày khách quan.
“Nói về Việt Nam mà không có các vương triều phía Nam thì không đảm bảo tính toàn vẹn. Không thể nói vấn đề các vương quốc phía Nam là vấn đề “nhạy cảm”, không nên nói. Vua Gia Long với sự cố gắng hết sức của mình đã đem lại sự thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ chúng ta như hôm nay thì sao không đưa ông ấy vào lịch sử?” – GS Ngọc đặt câu hỏi.
PGS.TS Trần Đức Cường, nguyên viện trưởng Viện Sử học, còn trăn trở thêm là chúng ta chưa được đọc các công trình viết một cách kỹ lưỡng về nhiều vấn đề thời hiện đại như cải cách ruộng đất, nhân văn giai phẩm, hợp tác hoá nông nghiệp…
“Chúng tôi viết khách quan trung thực về những sự kiện lịch sử đã xảy ra nhưng xuyên suốt vẫn vì lợi ích của dân tộc, đất nước” – PGS.TS Trần Đức Cường khẳng định.
Nhìn vào lịch sử để nhận ra bài học bảo vệ đất nước
Ông Võ Văn Thưởng – uỷ viên Bộ Chính trị, trưởng ban Tuyên giáo trung ương – chia sẻ những vấn đề mà các nhà sử học băn khoăn, trăn trở cũng là những vấn đề mà những người làm công tác tuyên giáo đang phải đối mặt và tìm cách giải quyết. Dù lịch sử có liên quan rất lớn với chính trị, nhưng các cơ quan lãnh đạo luôn nhìn vào lịch sử để nhận ra bài học về xây dựng, bảo vệ đất nước.
ĐÀO DUY LỘC (sưu tầm – biên soạn)
(VŨ VIẾT TUÂN)